Thực tiễn giải quyết ly hôn đơn phương tại Tòa án
Ly hôn đơn phương hay còn gọi là ly hôn theo yêu cầu của một bên đương sự, được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và thủ tục theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án còn nhiều tồn tại, vướng mắc về thủ tục, thời gian giải quyết, thẩm quyền, phân chia tài sản, quyết định người nuôi con. Từ thực tiễn tham gia giải quyết các vụ án ly hôn với vai trò Luật sư, tác giả chia sẻ quan điểm để góp phần tháo gỡ những vướng mắc, tồn tại này.
Vấn đề về căn cứ ly hôn đơn phương
Theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tại Điều 51 về Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn; cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy, pháp luật quy định cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo thủ tục ly hôn đơn phương hoặc thuận tình ly hôn, pháp luật còn bảo vệ người vợ hoặc chồng có không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình được thực hiện quyền ly hôn thông qua người đại diện như cha, mẹ, người thân thích khác đây, người chồng không được quyền yêu cầu ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ và trẻ em.
Ly hôn đơn phương tức là ly hôn theo yêu cầu của một bên, vấn đề này được luật điều chỉnh tại Điều 56, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cụ thể:
Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Nội dung chuẩn bị khi ly hôn đơn phương theo yêu cầu của một bên, đương sự có yêu cầu ly hôn đơn phương cần thu thập, chuẩn bị những giấy tờ, tài liệu như: Đơn ly hôn đơn phương được ban hành theo mẫu (quy định tại Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP theo mẫu số 23-DS); Đăng ký kết hôn (bản chính), nếu không có thì có thể xin cấp bản sao (bản trích lục), bản sao có chứng thực CMND/CCCD của vợ và chồng, sổ hộ khẩu của gia đình, bản sao chứng thực giấy khai sinh của con nếu có con chung, các giấy tờ chứng minh về tài sản chung và yêu cầu phân chia tài sản chung khi ly hôn thì chuẩn bị giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung này.
Vấn đề về xác định thẩm quyền trong vụ án ly hôn
Thẩm quyền giải quyết ly hôn đơn phương theo quy định tại Điều 39, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khi yêu cầu ly hôn đơn phương, người có yêu cầu phải nộp đơn đến Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Đồng thời, tại khoản 1, Điều 35, Bộ luật Tố tụng Dân sự, những tranh chấp về hôn nhân và gia đình sẽ do TAND cấp quận, huyện, thị xã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Nếu những vụ án ly hôn này có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì Tòa án cấp quận, huyện, thị xã sẽ không có thẩm quyền giải quyết, mà thẩm quyền sẽ thuộc về TAND cấp tỉnh quy định tại Điều 37, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nếu vợ, chồng là công dân Việt nam đang cư trú tại Việt Nam thì nộp đơn ly hôn đến TAND cấp quận, huyện, thị xã nơi người bị yêu cầu ly hôn đơn phương cư trú hoặc làm việc. Nếu có yếu tố nước ngoài sẽ do TAND cấp tỉnh, thành phố có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình hiện nay cho thấy rất nhiều trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nhưng không biết địa chỉ nơi cư trú của bị đơn ở đâu vì cuộc sống hôn nhân có mâu thuẫn, tranh chấp nên vợ chồng không chung sống với nhau, không ở tại địa phương nữa, tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn liên lạc với gia đình hoặc với con, nên thực tế xét xử hiện nay đang có những cách giải quyết khác nhau.
Theo khoản 2, Điều 6, Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3, Điều 192, Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, quy định: Trường hợp không thuộc điểm a, b, khoản 2, Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 217, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3, Điều này. Tại khoản 4, Điều 6, Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định: Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c, khoản 2, Điều này thì theo quy định tại điểm d, khoản 3, Điều 192, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện. Từ quy định này cho thấy, nếu vụ án ly hôn thuộc trường hợp quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 6, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao thì Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là đúng, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án khi cung cấp được đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc của người bị kiện.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 85, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì vợ, chồng không được ủy quyền ly hôn cho người khác tham gia tố tụng, mà chỉ được nhờ nộp đơn, nộp án phí... Thay vào đó, nếu không thể tham gia tố tụng thì vợ, chồng có thể gửi đơn đề nghị xét xử vắng mặt đến Tòa án.
Thời gian giải quyết ly hôn đơn phương được thực hiện như thủ tục của một vụ án dân sự thông thường, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời gian ly hôn đơn phương phải trải qua các giai đoạn: Chuẩn bị xét xử, mở phiên tòa…
Thông thường, thời gian giải quyết một vụ án ly hôn đơn phương thường là ít nhất 04 tháng. Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều vụ án yêu cầu khởi kiện phức tạp, vì nhiều lý do bất khả kháng, mà vụ án ly hôn có thể kéo dài hơn.
Án phí đối với vụ án ly hôn, trong vụ án ly hôn đơn phương, ngoài yêu cầu về quan hệ hôn nhân, thông thường vợ, chồng sẽ yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng. Theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, nếu một vụ ly hôn không có giá ngạch thì mức án phí là 300.000 đồng. Còn nếu vụ án ly hôn có giá ngạch thì căn cứ vào giá trị của tài sản được phân chia trong vụ án ly hôn, án phí ly hôn sẽ được tính theo giá ngạch theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Vấn đề giải quyết tài sản và con chung khi ly hôn
Chia tài sản và giành quyền nuôi con khi ly hôn được thực hiện theo Điều 59, Điều 81, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Cụ thể, quy định việc chia tài sản sau ly hôn tại Điều 59 theo nguyên tắc:
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn, Điều 81, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định; vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Luật sư HÀ THỊ KHUYÊN
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội