Thiếu máu có phải là một bệnh và điều trị bằng cách nào?
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng thiếu máu như: do thiếu yếu tố tạo máu; do bệnh lý hồng cầu (bệnh tan máu bẩm sinh); do tủy xương giảm sinh; bệnh máu ác tính, ung thư di căn…
Gần 2 năm qua, tháng nào bà Bùi Thị H. ở thành phố Yên Bái cũng phải xuống Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương để khám bệnh.
Theo bệnh án, bà bị mắc bệnh suy tủy xương dòng hồng cầu, từng bị ngất xỉu khi lượng huyết sắc tố trong máu chỉ còn 37 g/l và phải nhập viện.
Sau quá trình điều trị kết hợp truyền máu và uống thuốc, hiện nay, các chỉ số về máu của bà H. đã dần cải thiện.
Trên thực tế, thiếu máu là tình trạng rất thường gặp trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Rất nhiều người nghĩ rằng thiếu máu là một bệnh. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đây là một hội chứng xuất hiện ở nhiều bệnh khác nhau.
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng thiếu máu như: do thiếu yếu tố tạo máu (sắt, acid folic và/hoặc vitamin B12), do bệnh lý hồng cầu (bệnh tan máu bẩm sinh), do tủy xương giảm sinh hoặc rối loạn sinh các tế bào máu: suy tủy xương, rối loạn sinh tủy, bệnh máu ác tính, ung thư di căn…
Người bệnh cần được thăm khám, làm nhiều xét nghiệm để chẩn đoán, tìm nguyên nhân, từ đó bác sỹ mới đưa ra được phác đồ điều trị thích hợp.
Triệu chứng và nguyên nhân của tình trạng thiếu máu
Theo các bác sỹ Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, thiếu máu là tình trạng giảm hemoglobin (HGB) trong máu của người bệnh so với người cùng giới, cùng lứa tuổi và cùng điều kiện sống, gây ra các biểu hiện thiếu ôxy ở các mô và tổ chức của cơ thể.
Mức độ giảm hemoglobin trong máu xuống 5% so với giá trị tham chiếu (theo tuổi, giới, điều kiện sống) có giá trị chẩn đoán xác định tình trạng thiếu máu.
Việc xếp loại mức độ thiếu máu chủ yếu dựa vào nồng độ huyết sắc tố. Một người được coi là thiếu máu nhẹ khi huyết sắc tố từ 90 đến 120 g/l; thiếu máu vừa khi huyết sắc tố từ 60 đến dưới 90 g/l; thiếu máu nặng khi huyết sắc tố từ 30 đến dưới 60 g/l; thiếu máu rất nặng khi huyết sắc tố dưới 30 g/l.
Tùy vào mức độ thiếu máu người bệnh bị thiếu máu sẽ có những triệu chứng như: mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, giảm tập trung, chán ăn; cảm giác tức ngực, khó thở nhất là khi gắng sức hoặc đi lại nhiều; cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực.
Người thiếu máu thường da xanh, niêm mạc nhợt; móng tay khô, dễ gãy; tóc khô, dễ rụng; mất kinh ở nữ.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng thiếu máu, về cơ bản có thể chia thành 3 nhóm nguyên nhân. Một là mất máu do chảy máu (người bệnh bị xuất huyết tiêu hóa, bệnh trĩ, đi tiểu ra máu, kinh nguyệt kéo dài…). Hai là tan máu, do tăng phá hủy hồng cầu vì nguyên nhân tại hồng cầu hoặc nguyên nhân khác (bệnh tan máu bẩm sinh hoặc miễn dịch, sốt rét…). Ba là giảm hoặc rối loạn sinh máu: do tủy xương giảm sinh hoặc rối loạn sinh các tế bào máu: suy tủy xương, rối loạn sinh tủy, bệnh máu ác tính, ung thư di căn… hoặc do thiếu yếu tố tạo máu như: erythropoietin, acid amin, acid folic và vitamin B12, thiếu sắt…
Cách điều trị tình trạng thiếu máu
Nguyên tắc điều trị thiếu máu là xác định và điều trị theo nguyên nhân; phối hợp điều trị nguyên nhân và truyền bù khối hồng cầu.
Các bác sỹ chỉ định truyền chế phẩm khối hồng cầu dựa vào huyết sắc tố và lâm sàng. Người bệnh cần duy trì lượng huyết sắc tố tối thiểu từ 80 g/l (những trường hợp có bệnh lý tim, phổi mạn tính nên duy trì từ 90 g/l).
Theo các bác sỹ, nhiều người bị thiếu máu thiếu yếu tố tạo máu như thiếu sắt hoặc thiếu acid folic và/hoặc vitamin B12.
Thiếu máu do thiếu sắt là tình trạng thiếu máu xảy ra do cơ thể không đủ sắt đáp ứng nhu cầu tạo hồng cầu vì những nguyên nhân khác nhau. Để điều trị, người bệnh cần chế độ ăn giàu sắt như rau xanh, bí ngô, nho, chuối, thịt nạc, thịt bò, lòng đỏ trứng...
Người bệnh cũng có thể được bổ sung sắt theo đường uống hoặc tĩnh mạch; tiến hành xét nghiệm tế bào máu ngoại vi định kỳ 1-2 tuần/lần cho đến khi nồng độ huyết sắc tố đạt 100 g/l, sau đó kiểm tra định kỳ hằng tháng đến hết phác đồ.
Đối với người thiếu máu do thiếu acid folic và/hoặc vitamin B12, cần chế độ ăn: rau xanh, đậu đỗ, các loại nấm, chuối, dưa hấu, thịt, cá, gan, trứng; bổ sung chế phẩm acid folic (5mg hằng ngày trong vòng 4-6 tháng); vitamin B12 (1mg tiêm bắp 3 lần/tuần, tổng liều 10mg; sau đó duy trì 1mg/tháng). Bệnh nhân cần được xét nghiệm tế bào máu ngoại vi định kỳ hằng tháng để theo dõi và đánh giá kết quả điều trị.
Đối với nguyên nhân thiếu máu do tan máu tự miễn, có thể điều trị ức chế miễn dịch bằng corticoid hoặc điều trị gamma globulin tĩnh mạch, cắt lách, điều trị hóa chất và các thuốc ức chế miễn dịch...
Theo các bác sỹ, đối với nguyên nhân thiếu máu do tủy giảm sinh, có thể điều trị bằng cách truyền khối hồng cầu, khối tiểu cầu; ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại hoặc điều trị ức chế miễn dịch bằng ATG (anti-thymocyte-globuline)...
Đối với nguyên nhân thiếu máu do bệnh lý hồng cầu bẩm sinh, cần truyền khối hồng cầu, duy trì huyết sắc tố khoảng 90 g/l, thải trừ sắt định kỳ, đặc biệt khi nồng độ ferritin vượt quá 1.000 ng/ml hoặc cắt lách; ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài...
Đối với nguyên nhân thiếu máu do mất máu mạn, theo các bác sỹ, cần tìm nguyên nhân để điều trị như cầm máu và điều trị ổ loét dạ dày-tá tràng, cắt u xơ tử cung, tẩy giun móc…; bù sắt và các yếu tố cần thiết cho tạo máu.