Vì sao ông Nguyễn Đức Chung được tuyên án dưới mức thấp nhất khung hình phạt?
Ông Nguyễn Đức Chung, cựu Chủ tịch UBND TP. Hà Nội bị truy tố ở khung hình phạt 10 – 15 năm tù về tội “Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước”. Tuy nhiên, tại phiên tòa sáng 11/12, HĐXX tuyên phạt ông Chung 5 năm tù, dưới mức thấp nhất khung hình phạt.
Sau nửa ngày xét xử kín, trưa 11/12, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội tuyên án vụ “Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước”. Phần tuyên án được tòa công khai.
Theo đó, cựu Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung bị tuyên phạt 5 năm tù; Phạm Quang Dũng (cựu cán bộ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu – C03, Bộ Công an) 4 năm 6 tháng năm tù; Nguyễn Hoàng Trung (lái xe của ông Chung) 24 tháng tù; Nguyễn Anh Ngọc (cựu Phó trưởng phòng Thư ký biên tập, Văn phòng UBND TP. Hà Nội) 18 tháng tù.
Trước đó, theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố các bị cáo xác định bị cáo Nguyễn Đức Chung có vai trò chủ mưu, Phạm Quang Dũng là người thực hành. Cả 2 bị cáo này thuộc trường hợp “phạm tội 2 lần trở lên” nên bị truy tố theo Điểm c Khoản 3 Điều 337 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt 10 – 15 năm tù. Bị cáo Nguyễn Hoàng Trung và Nguyễn Anh Ngọc bị truy tố theo Khoản 1 Điều 337 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt từ 2 – 7 năm tù.
Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Giang Hồng Thanh (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Trung) cho biết, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự thì tòa án có thể quyết định một mức hình phạt dưới khung.
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2.Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
“Bị cáo Nguyễn Đức Chung được 4 tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật Hình sự, nên đủ điều kiện được giảm dưới khung hình phạt. Khung của Khoản 3 Điều 337 Bộ luật Hình sự thấp nhất là 10 năm, nhưng bị cáo Chung được đưa xuống khoản 2, thấp nhất là 5 năm”, Luật sư Thanh nói.
Điều 337. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước 1. Người nào cố ý làm lộ bí mật nhà nước, chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Bí mật nhà nước thuộc độ tuyệt mật; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Gây tổn hại về chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Cũng theo Luật sư Thanh, ngoài bị cáo Chung, bị cáo Nguyễn Anh Ngọc và Phạm Quang Dũng được tuyên án dưới khung hình phạt. Còn bị cáo Nguyễn Hoàng Trung không được giảm xuống dưới khung hình phạt vì ở “khung thấp nhất”.
Luật sư Giang Hồng Thanh chia sẻ thêm, trong phiên xử sáng 11/12, cả 4 đều nhận tội, khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối lỗi, không ai phản đối bất cứ quan điểm nào của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo không đổ lỗi cho nhau.
Tại phiên tòa này, các bị cáo đều bày tỏ sự ân hận và gửi lời xin lỗi Đảng, Nhà nước, nhân dân. Trong đó, bị cáo Nguyễn Đức Chung gửi lời xin lỗi cử tri vì đã phụ lòng tin của họ.
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; m) Phạm tội do lạc hậu; n) Người phạm tội là phụ nữ có thai; o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; r) Người phạm tội tự thú; s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội; v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. 2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. 3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.